Đang tải...
Bài viết này tóm tắt và lược dịch nội dung trong ghi chú ứng dụng “A robust and sensitive routine analysis method of 40 PFAS compounds in surface water using the SCIEX 7500 system” của các tác giả Karl A. Oetjen và Simon Roberts (SCIEX, USA). Cung cấp cho bạn đọc hướng tiếp cận liên quan tới việc xác định giới hạn phát hiện phương pháp trong phân tích các PFAS trong mẫu sữa công thức của trẻ em. Nội dung tập trung vào việc chọn mẫu sữa ít bị ô nhiễm về PFAS trên thị trường và việc xác định MDL tuân thủ theo AOAC SMPR và 40 CFR 136 Phụ lục B, cũng như 1 số yêu thách thức tới từ nhiễm chéo từ các vật tư trong phòng thí nghiệm và ảnh hưởng tới từ các cholic acid. Về người dịch, TS. Lê Sĩ Hưng, tốt nghiệp tiến sĩ tại đại học BOKU Vienna (Cộng hoà Áo) ngành hoá phân tích, đã có trên 10 năm kinh nghiệm làm việc với các thiết bị khối phổ, tập trung vào ứng dụng các kỹ thuật khối phổ trong phân tích các chất chuyển hoá và protein trong các đối tượng mẫu sinh học, ORCID: 0000-0002-0762-3492.
Tiêu chuẩn cấp nước phòng thí nghiệm xác định các loại nước khác nhau trong phòng thí nghiệm dựa trên các lý do về kỹ thuật và kinh tế. Mục đích của các tiêu chuẩn này là để đảm bảo chất lượng nước phù hợp được sử dụng cho một ứng dụng cụ thể, đồng thời hạn chế chi phí vận hành phòng thí nghiệm – Sản xuất nước Loại 1 đắt hơn nước Loại 2 hoặc Loại 3.
Thông thường, khi so sánh cấu hình giữa các thiết bị LC/MS với nhau, người sử dụng thường so sánh độ nhạy của máy theo hai giá trị là độ nhạy của thiết bị tính theo S/N (signal to noise hay tín hiệu trên nhiễu) và giá trị giới hạn phát hiện của thiết bị (Instrument detection limit).
Cả hai giá trị này đều sử dụng tín hiệu của Reserpine cho mode dương và Chloramphenicol cho mode âm. Vậy hai giá trị trên được tín như thế nào và giá trị nào thì tốt hơn cho khách hàng tham khảo?

Hotline
0974.540.000